Bác sĩ Trần Lý Lê (tvvn.org), Chuyên Khoa Nội Thương, Khảo Cứu Ung Thư
Hàng năm tại Hoa Kỳ khoảng 11 ngàn phụ nữ dưới 55 tuổi bị ung thư cổ tử cung.
Cổ tử cung là một phần của hệ thống sinh dục trong phụ nữ, cổ tử cung là phần cuối thu nhỏ của triệu chứng hay dạ con.
Xem hình vẽ:
Cổ tử cung là đường:
- Nối liền triệu chứng với âm hộ. Khi có kinh nguyệt, máu chảy từ triệu chứng qua cổ tử cung xuống âm hộ, âm hộ thải máu ra ngoài cơ thể.
- Cổ tử cung tạo chất nhờn, trong khi giao hợp, chất nhờn giúp đưa tinh trùng từ âm hộ đế triệu chứng.
-Trong khi mang thai, cổ tử cung đóng chặt giữ thai nhi bên trong triệu chứng. Khi lâm bồn,, cổ tử cung mở rộng đưa hài nhi qua âm hộ.
Tế bào ung thưUng thư khởi đầu từ tế bào, đơn vị căn bản của mọi mô, mô tạo thành bộ phận. Bình thường, tế bào khỏe mạnh sinh sản và tăng trưởng tạo ra những tế bào con khi cần thiết. Khi tế bào khỏe mạnh già lão hoặc bị hư hoại, chúng chết, và các tế bào mới thay thế.
Đôi khi, quá trình sinh-tử trật tự kể trên bị đảo lộn. Tế bào mới xuất hiện trong khi cơ thể không cần đến, hoặc tế bào già lão, hư hoại không chết như đã định, sự tích tụ của các tế bào mới và cũ tạo thành khối gọi là "khối u", bướu hay "tumor“.
Khối u (bướu) có thể "lành“ (benign) hoặc "độc" (malignant). Bướu lành thường không độc hại như bướu độc.
Bướu lành như polyp, u nang (cyst), hay khối "mụn cóc" (wart):
• Ít khi gây tử vong
• Không ăn lậm (invasive) đến các mô lân cận
• Không lan xa đến những bộ phận khác trong cơ thể
Bướu độc như ung thư:
• Có thể gây tử vong
• Có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ, chữa trị
• Có thể ăn lậm đến các mô lân cận
• Lan ra các bộ khác
Ung thư cổ tử cung bắt đầu từ những tế bào tại bề mặt của cổ tử cung. Qau thời gian, tế bàoung thư ăn sâu vào mô cổ tử cung và mô lân cận. Tế bào ung thư lan rộng bằng cách tách rời từ khối u đầu tiên. Các tế bào này theo mạch máu (blood vessel) hoặc mạch bạch huyết (lymph vessel) đến mọi bộ phận trong cơ thể. Tế bào ung thư có thể “bám" vào các bộ phận và sinh sản, tạo nên một khối u mới, có thể gây hư hoại các bộ phận này. Sư lan tràn của tế bào ung thư gọi là “metastasis“.
Những yếu tố gia tăng nguy cơ bị ung thư cổ tử cung:Y học chưa biết rõ nguyên nhân của ung thư cổ tử cung và cũng không thể giải thích tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư. Dù chưa biết rõ nguyên nhân gây ung thư, giới y học đã nhận ra những yếu tố liên quan đến ung thư cổ tử cung, càng có nhiều yếu tố này, tỷ lệ ung thư càng cao (risk factors) như nhiễm trùng do human papillomavirus hay HPV, một loại siêu vi khuẩn, là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung. HPV và các yếu tố khác khiến tỷ lệ ung thư cổ tử cung gia tăng cao hơn nữa:
- Nhiễm trùng HPV: Đây là một nhóm siêu vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng tại cổ tử cung, khi cơn nhiễm trùng dai dẳng không dứt có thể dẫn đến ung thư. Hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung đều do nhiễm trùng HPV.
Nhiễm trùng HPV rất thông thường, siêu vi khuẩn truyền từ người này qua người khác qua việc giao hợp. Hầu hết những người trưởng thành đều bị nhiễm trùng HPV, việc nhiễm trùng này chấm dứt không cần chữa trị.
Một số loại HPV tạo ra sự thay đổi tại tế bào cổ tử cung, nếu tìm thấy các thay đổi này sớm, ta có thể ngăn ngừa ung thư bằng cách cắt bỏ hoặc hủy diệt trước khi các tế bào trở thành ung thư.
Loại thuốc chủng ngừa nhiễm trùng HPV phòng ngừa sự nhiễm trùng của 2 loại siêu vi khuẩn HPV gây ung thư cổ tử cung, dùng cho nữ giới tuổi 9-26.
- Thiếu phương tiện để thử Pap: ung thư cổ tử cung thường thấy trong phụ nữ không thử Pap thường xuyên. Loại thử nghiệm này giúp bác sĩ sớm tìm ra tế bào bất thường; cắt bỏ hoặc diệt tế bào bất thường ngăn ngừa ung thư cổ tử cung rất hữu hiệu.
- Thuốc lá, thuốc lào: nhóm phụ nữ bị nhiễm trùng HPV và hút thuốc lá có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao hơn so với người không hút thốc lá.
- Suy yếu hệ đề kháng: nhiễm trùng HIV hoặc dùng một số thuốc men gây suy yếu hệ đề kháng gia tăng tỷ lệ ung thư cổ tử cung.
- Bệnh sử về tình dục: Phụ nữ giao hợp với nhiều người, phụ nữ có bạn tình giao hợp với nhiều người khác đều có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao hơn, nhất là phụ nữ bị nhiễm trùng HPV.
- Dùng thuốc ngừa thai trong thời gian dài (trên 5 năm) có thể gia tăng tỷ lệ ung thư cổ tử cung nhất là khi bị nhiễm trùng HPV.
- Sanh nở nhiều lần (5 con hoặc nhiều hơn) có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao hơn, nhất là khi bị nhiễm trùng HPV.
- Dùng DES (diethylstilbestrol) gia tăng tỷ lệ ung thư cổ tử cung cho con gái (dùng trong thời gain thai nghén đứa con này). DES dùng tại Hoa Kỳ trong những năm 1940 - 1971.
Triệu chứng
Ung thư cổ tử cung trong thời kỳ bắt đầu không tạo triệu chứng nào. Khi ung thư tăng trưởng, bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều triệu chứng sau:
- Xuất huyết từ âm hộ:
- Xuất huyết giữa các chu kỳ kinh nguyệt
- Xuất huyết sau khi giao hợp, tẩy rửa âm đạo bằng vòi sen, hoặc khám phụ khoa
- Kinh nguyệt kéo dài hoặc nhiều hơn bình thường
- Gia tăng chất nhơn từ âm hộ:
- Đau bụng dưới
- Đau đớn khi giao hợp
Khi gặp các triệu chứng này, cần đi khám bệnh để tìm nguyên nhân để chữa trị sớm, các triệu chứng kể trên có thể xuất hiện trong các chứng bệnh khác ngoài ung thư cổ tử cung.
Truy tìm và chẩn đoán
Phụ nữ có thể giảm nguy cơ bị ung thư cổ tử cung qua việc thử Pap định kỳ. Thử nghiệm Pap (còn gọi là Pap smear hoặc cervical smer) là một loại thử nghiệm giản dị bác sĩ dùng để quan sát các tế bào cổ tử cung. Loại thử nghiệm có thể tìm ra các tế bào bất thường dẫn đến ung thư.
Tìm thấy và chữa trị các tế bào bất thường có thể ngăn ngừa hầu hết mọi loại ung thư cổ tử cung. Chữa trị sớm thường đạt hiệu quả cao nhất.
Thử Pap không gây đau đớn, được thực hiện tại văn phòng bác sĩ hoặc trung tâm y tế. Bác sĩ hoặc người điều dưỡng lấy mẫu tế bào từ cổ tử cung, phòng thí nghiệm thẩm định các tế bào dưới kinh hiển vi, tìm kiếm dấu hiệu bất thường trong tế bào. Hầu hết các tế bào bất thường tìm thấy khi thử Pap không phải là ung thư, các mẫu tế bào này cũng được thử HPV xem có dấu hiệu nhiễm trùng hay không.
Nếu kết quả bất thường, bác sĩ sẽ cần làm các thử nghiệm khác để chẩn đoán:
- Colposcopy: Bác sĩ dùng dụng cụ nội soi có tên colposcope để quan sát cổ tử cung. Dụng cụ này gồm đèn và kính phóng đại để nhìn rõ hơn các tế bào. Loại thử nghiệm được thực hiện tại văn phòng bác sĩ.
- Trích mô: Bác sĩ lấy một mảnh mô cổ tử cung để thử nghiệm. Bác sĩ Bệnh Lý quan sát các tế bào dưới kinh hiển vi
- Punch biopsy: Bác sĩ dùng dao mổ cắt một mảnh nhỏ cổ tử cung để thử nghiệm
- LEEP: Bác sĩ dùng dụng cụ có hình dạng khuyên tròn để cắt một mảnh mỏng của cổ tử cung
- Endocervical curettage: Bác sĩ dùng dụng cụ có dạng cái muổng để nạo một ít mô cổ tử cung
- Conization: bác sĩ cắt một mảnh hình nón từ cổ tử cung, cone biospy cho ta thấy các tế bào bên dưới bề mặt cổ tử cung. Đôi khi bác sĩ thực hiện loại tiểu phẫu này khi bệnh nhân được chụp thuốc mê.
Trích mô có thể gây xuất huyết hoặc chất nhờn tiết ra từ âm hộ. các vết cắt thường lành rất nhanh. Một số bệnh nhân có bị đau bụng dưới như trong kỳ kinh nguyệt. Bác sĩ có thể cho thuốc giảm đau.Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm sinh thiết):- Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao?
- Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô?
- Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh thiết? Có đau đớn lắm không?
- Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng?
- Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho tôi hiểu?
- Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước sắp tới? Và bao giờ?
Nếu không tìm thấy dấu vết ung thư từ việc làm sinh thiết, quý vị hãy hỏi bác sĩ xem có cần cần tái khám định kỳ hay không.
Định kỳ
Nếu kết quả trích mô cho thấy bị ung thư, trước khi chữa trị, bác sĩ cần biết thời kỳ của ung thư. Việc định kỳ ung thư dựa trên kích thước của khối u, đã lan hay chưa và nếu có, đã lan đến đâu. Ung thư cổ tử cung lan đến các mô lân cận trong khoang bụng dưới, hạch bạch huyết hoặc phổi, đôi khi lan đến gan hoặc xương.
Khi ung thư lan đến các bộ phận khác, khối u mới có cùng tế bào ung thư như khối u đầu tiên, ung thư cổ tử cung đến phổi vẫn là ung thư cổ tử cung, không phải ung thư phổi, và được gọi là ung thư di căn.
Bác sĩ sẽ khám toàn khoa kể cả phụ khoa, tìm dấu vết của hạch bạch huyết sưng trướng và làm một hoặc nhiều thử nghiệm sau:
- Chụp hình phổi xem ung thư có lan đến phổi chưa
- CT scan: chụp hình những bộ phận trong cơ thể như gan, phổi, tìm dấu vết ung thư. Bác sĩ có thể thuốc nhuộm chích vào mạch máu, uống hoặc bơm từ hậu môn để giúp nhận diện các bộ phận rõ ràng hơn.
- MRI: chụp hình khoang bụng tìm dấu vết ung thư, đôi khi bác sĩ cần dùng thuốc nhuộm để hình ảnh rõ ràng hơn.
- PET scan: Bệnh nhân được chích một dung dịch chứa đường và chất phóng xạ. Máy chụp hình những bộ phận tiêu thụ đường. Tế bào ung thư dùng đường nhanh hơn tế bào bình thường, và những nơi bị ung hoại sẽ cho hình ảnh rõ ràng hơn.
Những thời kỳ của ung thư cổ tử cung:Giai đoạn I: ung thư đã ăn lậm bên dưới bề mặt của cổ tử cung; ung thư còn nằm tại cổ tử cung.
Giai đoạn II: Ung thư lan đến phần trên của âm đạo và có thể lan đến các mô lân cận trong khoang bụng. Ung thư chưa lan đến phần dưới của âm đạo hoặc thành khoang bụng.
Giai đoạn III: Ung thư lan đến phần dưới của âm đạo, có thể ăn sâu đến thành khoang bụng. Nếu khối u quá lớn, có thể làm nghẽn dòng nước tiểu, một hoặc cả hai thận có thể không hoạt động bình thường.
Giai đoạn IV: ung thư ăn sâu dến bàng quang hoặc trực tràng hoặc đã lan đến các bộ phận khác trong cơ thể.
Chữa trị
Bệnh nhân có nhiều loại trị liệu để chọn lựa, giải phẫu, xạ trị, hóa chất hoặc nhiều cách chữa trị chung với nhau. Việc chữa trị tùy thuộc vào thời kỳ của ung thư, loại ung thư, triệu chứng và tình trạng sức khoẻ chung của người bệnh và cả ước muốn mang thai trong tương lai. Bệnh nhân và bác sĩ sẽ thẩm định, so sánh cách chữa trị, phản ứng phụ.
Quý vị có thể muốn tham dự thử nghiệm lâm sàng, và có thể thảo luận với bác sĩ của mình.
Bác sĩ có thể giới thiệu quý vị đến một chuyên viên, hoặc quý vị có thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến chuyên viên. Những chuyên viên chữa trị ung thư cổ tử cung bao gồm: bác sĩ phụ khoa (gynecologist), bác sĩ chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị ung thư hoặc bao gồm cả chuyên viên điều dưỡng về ung thư và dinh dưỡng.
Trong bất cứ thời kỳ ung thư nào, bệnh nhân cũng cần được giảm đau và giảm triệu chứng, giảm phản ứng phụ, và áp lực tinh thần. Loại chữa trị này được gọi là “supportive care”, “palliative care” hoặc chữa trị triệu chứng. Trước khi chữa trị, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:• Tôi bị ung thư loại nào? Ở trong thời kỳ nào? Ung thư đã lan xa chưa? Nếu có, đã lan đến đâu?
• Có bao nhiêu cách chữa trị? Bác sĩ đề nghị cách nào? Tôi có được chữa trị bằng nhiều cách không?
• Tôi có phải vào bệnh viện không? Sau khi rời bệnh viện, tôi sẽ được chăm sóc ra sao?
• Biến chứng và phản ứng phụ là những gì? Ta sẽ phòng ngừa hoặc chữa trị ra sao?
• Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
• Có cần phải thay đổi hoạt động trong đời sống hằng ngày không?
• Tôi có hồi phục hoàn toàn không? Bao nhiêu lâu thì hồi phục?
• Tôi cần đi khám bệnh định kỳ không?
• Việc chữa trị có tốn kém nhiều không? Bảo hiểm của tôi có trả không?
• Tôi có nên tham dự thử nghiệm lâm sàng không?
Giải phẫu
Đây là cách chữa trị cho phụ nữ bị ung thư cổ tử cung trong giai đoạn I và II. Bác sĩ giải phẫu cắt bỏ khối u:
- Radical Trachelectomy: Bác sĩ cắt bỏ cổ tử cung, một phần âm hộ và những hạch bạch huyết trong khoang bụng. Cách giải phẫu này dành cho phụ nữ có khối u nhỏ và muốn mang thai trong tương lai.
- Total hysterectomy: Bác sĩ cắt bỏ cổ tử cung và triệu chứng.
- Radical hysterectomy: Bác sĩ cắt bỏ cổ tử cung, những mô lân cận, triệu chứng và một phần của âm hộ.
Khi cắt bỏ tử cung, bác sĩ cũng có thể cắt bỏ:
- Ống dẫn trứng và buồng trứng, cách giải phẫu này gọi là "salpingo-oophorectomy".
- Hạch bạch huyết: Bác sĩ có thể cắt bỏ hạch bạch huyết lân cận để tìm dấu vết ung thư; nếu ung thư hiện diện có nghĩa là ung thư có thể đã lan đến những bộ phận khác trong cơ thể.
Thời gian cần thiết để phục hồi không đồng nhất cho mọi bệnh nhân, hầu hết bệnh nhân ở lại bệnh viện 2-3 ngày. Bệnh nhân sẽ cần thuốc giảm đau vài tuần sau khi mổ. Trước cuộc giải phẫu, quý vị có thể thảo luận với bác sĩ về thuốc men dùng sau khi mổ, bác sĩ có thể gia giảm thuốc khi cần thiết.
Sau cuộc giải phẫu radical trachelectomy, một số phụ nữ bị khó khăn khi tiểu tiện, bệnh nhân ở lại bệnh viện khoảng 2-5 ngày.
Sau cuộc giải phẫu cắt bỏ tử cung, bệnh nhân ở lại bệnh viện khoảng 1 tuần. Bệnh nhân thường mệt mỏi, mất sức trong một thời gian ngắn. Bệnh nhân có thể bị buồn nôn, ói mửa hoặc gặp khó khăn tiểu tiện, đại tiện. Bệnh nhân có thể ăn uống loại thực phẩm loãng và dần dần đổi qua thực phẩm đặc. Hầu hết bệnh nhân trở lại sinh hoạt bình thường trong 4-8 tuần lễ sau khi mổ.
Sau cuộc giải phẫu cắt bỏ tử cung, phụ nữ không còn kinh nguyệt và cũng không thể thụ thai.
Khi buồng trứng bị cắt bỏ, phụ nữ đi vào thời kỳ mãn kinh. Những triệu chứng mãn kinh xuất hiện rất nhanh như bốc hỏa lên mặt, nóng lạnh... có phần nặng hơn so với sự mãn kinh xảy ra tự nhiên. Quý vị có thể thảo luận với bác sĩ trước khi mổ. Một số dược phẩm có thể tiết giảm các triệu chứng này và hữu hiệu hơn nếu sử dụng trước khi mổ.
Một số phụ nữ gặp khó khăn tình dục sau khi cắt bỏ tử cung. Cảm tưởng "mất mát" khiến người phụ nữ khó gần gũi người bạn tình, nên thảo luận với chuyên viên tâm lý và bạn tình để tìm lại sự thoải mái tâm thần. Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:-Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi? Có phải cắt bỏ buồng trứng không? Có cắt bỏ hạch bạch huyết không?
-Tôi sẽ ra sao sau khi mổ?
- Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì?
- Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu?
- Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không? Nếu không cắt bỏ triệu chứng, tôi có thể mang thai và sinh nở được nữa không? Nếu mang thai, tỷ lệ rủi ro bị hư thai là bao nhiêu?
- Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
- Cuộc giải phẫu ảnh hưởng đến đời sống tình dục ra sao?
- Tôi có cần đi khám bệnh định kỳ thường xuyên không?
Xạ trị
Dùng năng lượng cao (high energy) để diệt tế bào ung thư, một loại chữa trị tại chỗ cho mọi thời kỳ của ung thư cổ tử cung. Bệnh nhân trong thời kỳ đầu có thể dùng xạ trị thay cho giải phẫu. Xạ trị có thể được sử dụng trước, sau khi giải phẫu hoặc ngay cả khi không giải phẫu và dùng để giảm đau đớn. Có hai loại:• Ngoại xạ trị (external radiation): Nguồn phóng xạ bên ngoài cơ thể, từ một máy phát quang, bệnh nhân thường được chữa 5 ngày mỗi tuần trong nhiều tuần lễ. Mỗi cuộc chữa trị kéo dài khoảng vài phút.
• Nội xạ trị (internal radiation, implant radiation, brachytherapy): Nguồn phóng xạ đựng trong ống nhỏ đặt trong âm hộ. Bệnh nhân ở lại bệnh viên khi ống phóng xạ đặt trong cơ thể (thường là khoảng 3 ngày). Khi ống chứa phóng xạ được tháo bỏ, không còn nguồn phóng xạ trong cơ thể. Cách chữa trị này có thể diễn tiến nhiều lần trong nhiều tuần lễ.
Đôi khi bệnh nhân được chữa trị với cả hai loại xạ trị trị liệu kể trên.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào lượng và loại xạ trị, thường biến mất một thời gian ngắn sau khi xạ trị. Trong thời gian chữa trị, bệnh nhân rất mệt mỏi nên nghỉ ngơi dưỡng sức là điều quan trọng nhưng vẫn nên vận động thân thể để chóng bình phục.
Nếu dùng ngoại xạ trị, phản ứng phụ thường thấy là tiêu chảy và tiểu rắt. Một số bệnh nhân nhân gặp trở ngại trong việc tiêu tiểu rất lâu sau khi chữa trị. Vùng da nơi chiếu phóng xạ thường đỏ rát và khô, lông rụng và có thể không mọc lại.
Nội xạ trị có thể gây mất kiểm soát bàng quang nhưng trở ngại này sẽ tiết giảm sau vài tháng.
Ngoại và nội xạ trị có thể tạo nhiều triệu chứng khó chịu. Quý vị nên thảo luận với bác sĩ trước khi chữa trị về những triệu chứng lâu dài hậu xạ trị nhu sự thu nhỏ của âm hộ, biến chứng này khiến các lần khám phụ khoa kế tiếp cũng như giao hợp trở nên khó khăn. Dù không thể ngăn ngừa biến chứng này nhưng bác sĩ có thể giải thích cách chữa, cách nong rộng âm hộ như trước.
Xạ trị có thể hủy hoại buồng trứng, kinh nguyệt sẽ ngưng và bệnh nhân gặp các triệu chứng như khô âm đạo, bốc hỏa, nóng lạnh ... Phụ nữ muốn thụ thai nên thảo luận với bác sĩ cách duy trì buồng trứng trước khi chữa xạ trị.Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu cuộc xạ trị:
-Tại sao tôi cần loại chữa trị này?
-Bác sĩ chọn loại xạ trị nào cho tôi? Cả hai loại xạ trị có cần thiết không?
-Khi nào thì việc chữa trị bắt đầu? Khi nào thì xong? Chữa trị bao nhiêu lần?
-Tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Tôi có cần vào bệnh viện không? Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi và sau khi chữa trị?
-Tôi có thể tự đến nơi chữa trị hay không?
-Làm thế nào để biết là xạ trị có hiệu quả hay không?
-Có phản ứng phụ nào lâu dài hay không?
-Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
- Tôi có cần đi khám bệnh định kỳ thường xuyên không?
- Tôi có thể thụ thai và sinh nở về sau không?Hóa chất trị liệu
Hóa chất được dùng chung với xạ trị để chữa trị ung thư cổ tử cung, khi ung thư đã lan xa đến các bộ phận khác, hóa chất có thể được dùng riêng rẽ. Các hóa chất này thường được truyền qua tĩnh mạch, bệnh nhân được chữa trị tại trung tâm y tế, văn phòng bác sĩ hoặt tại nhà; một vài bệnh nhân cần ở lại bệnh viện.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất sử dụng. Nói chung, hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư nên sẽ ảnh hưởng đến những tế bào tăng trưởng nhanh chóng:
- Tế bào máu: Khi hóa chất chữa ung thư hạ thấp số tế bào máu khỏe mạnh, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng, và mệt mỏi, mất sức. Bác sĩ cần thử máu để đo lường số tế bào máu. Khi lượng tế bào xuống thấp, bác sĩ có thể dùng thuốc kích thích tủy xương chế tạo tế bào mới nhanh chóng hơn hoặc sẽ được truyền máu.
- Tế bào bọc quanh chân tóc: Hóa chất gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc trở lại sau khi chữa trị, tóc mới có thể khác màu hoặc thay đổi thể dạng.
- Tế bào lót các bộ phận tiêu hóa: Hoá chất có thể gây kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, lở miệng.
Những phản ứng phụ khác có thể là nổi mề đay, ngứa ngáy, cảm giác kim châm trên ngón tay chân, giảm thính giác, mất thăng bằng, đau khớp xương và sưng trướng chân tay, bác sĩ có thể dùng dược phẩm để giúp cơ thể thải bớt nước. Hầu hết các phản ứng phụ này sẽ tiết giảm khi cuộc trị liệu hoàn tất. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa chất:-Tôi sẽ được chữa trị bằng loại thuốc nào? khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì xong?
-Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị?
-Mục đích của việc chữa trị là gì? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Việc chữa trị ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao?
Ý kiến thứ nhìTrước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu
Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình. Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình, hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa… để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa.
Dinh dưỡngDinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein, sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy.
Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và khoáng chất (minerals).
Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn.
Thăm bệnh định kỳSau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể. Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát theo dõi diễn tiến của bệnh trạng, các loại thử nghiệm như thử máu, chụp hình phổi, CT scan, nội soi hoặc những loại thử nghiệm khác.
Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ.
Khi tái khám, bác sĩ thường khám phụ khoa. Bác sĩ có thể làm sinh thiết, thử bone scan, CTscan, MRI hoặc các loại thử nghiệm khác.
Những nguồn hỗ trợChứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu. Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu.
Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua quý vị hữu, thân nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm:Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng.
Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà…
Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện thoại, hoặc qua internet.
Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư
Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thưBác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất. Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách trị liệu hiệu quả hơn.
Các chuyên gia đang thử nghiệm nhiều phương cách trị liệu dùng riêng rẽ hoặc dùng chung với nhau xạ trị, hóa chất và giải phẫu.
Các chuyên gia đang tìm hiểu cách giải phẫu cắt bỏ sentinel lymph node. Đây là hạch bạch huyết đầu tiên nơi ung thư xuất hiện khi bắt đầu lan xa. Hiện nay các bác sĩ thường cắt bỏ nhiều hạch bạch huyết và tìm dấu ung thư. Trong cuộc thử nghiệm, bác sĩ tìm kiếm hạch bạch huyết "đầu tiên" để chỉ cắt bỏ cấu trúc này thay vì cắt bỏ nhiều hạch bạch huyết.
Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ có phần tin tức về thử nghiệm lâm sàng: h*tp://www.cancer.gov/clinicaltrials. Tại đây ngoài các tin tức về thử nghiệm còn có những chi tiết về các cuộc thử nghiệm lâm sàng về ung thư.
Nguồn tài liệu, tin tức từ viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ. Quý vị có thể lấy tin tức cho chính mình, thân nhân hoặc bác sĩ của mình.
Điện thoại (miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ): 1-800-4-CANCER (1-800-422-6237).
Điện thoại dành cho những người lãng tai: 1-800-332-8615
Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp tin tức về cách ngăn ngừa ung thư, truy tìm, chẩn đoán, chữa trị, di tính học, thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra còn có những dữ kiện về các chương trình khảo cứu, chương trình tài trợ và cả thống kê về ung thư.
Trang nhà: h*tp://cancer.gov
Nếu quý vị cần thêm chi tiết hoặc các dữ kiện khác, hãy dùng “online contact form” tại: h*tp://www.cancer.gov/contact hoặc gửi điện thư về: cancergovstaff@mail.nih.*** (thay thế *** bằng “gov”)
Tài liệuViện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp những tài liệu (ấn bản, tạp chí) về ung thư, những tài liệu này bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha. Quý vị có thể đặt mua (ấn phí tối thiểu) qua điện thoại, trên trang mạng hoặc bằng thư từ, hoặc vào trang nhà kể trên, và tự in phụ bản cho mình. Thư từ gửi về:
Publications Ordering Service
National Cancer Institute
Suite 3035A
6116 Executive Boulevard, MSC 8322
Bethesda, MD 20892-8322Chữa trị ung thư (Cancer Treatment)- Hóa chất trị liệu và quý vị (Chemotherapy and You)
- Xạ trị và quý vị (Radiation Therapy and You)
- Làm thế nào để tìm một bác sĩ hoặc nơi trị liệu nếu quý vị bị ung thư (How To Find a Doctor or Treatment Facility If You Have Cancer)
- Câu hỏi và câu trả lời về targeted therapy (Targeted Cancer Therapies: Questions and Answers)
- Câu hỏi và câu trả lời về cách trị liệu ung thư bằng ánh sáng (Photodynamic Therapy for Cancer: Questions and Answers)Sống với ung thư (Living With Cancer)
- Cách ăn uống dành cho người bị ung thư (Eating Hints for Cancer Patients)
- Giảm đau đớn (Pain Control)
- Thích ứng với ung thư thời kỳ sau cùng (Coping With Advanced Cancer)
- Những ngày sắp tới: Đời sống sau khi chữa trị ung thư (Facing Forward Series: Life After Cancer Treatment)
- Những ngày sắp tới: Những cách tạo sự thay đổi cho ung thư (Facing Forward Series: Ways You cần Make a Difference in Cancer)
- Dành thời giờ: Hỗ trợ những người bị ung thư (Taking Time: Support for People with Cancer)Khi ung thư tái phát (When Cancer Returns)
- Những tổ chức cung cấp dịch vụ giúp những người bị ung thư và thân nhân họ (National Organizations That Offer Services to People With Cancer and Their Families)Thử nghiệm lâm sàng (Clinical Trials)
- Tham dự thử nghiệm lâm sàng (Taking Part in Cancer Treatment Research Studies)
- Những yếu tố nguy hại (Risk Factors)Người chăm sóc bệnh nhân (Caregivers)
- Khi người thân yêu được chữa trị bệnh ung thư: hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Is Being Treated for Cancer: Support for Caregivers)
- Khi người thân yêu bị ung thư ở giai đoạn cuối: Hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Has Advanced Cancer: Support for Caregivers)
- Những ngày sắp tới: Khi cuộc chữa trị ung thư của người thân chấm dứt (Facing Forward: When Someone You Love Has Completed Cancer Treatment)* Tài liệu NIH số 08-2407, tháng Mười Một 2008
Bác sĩ Trần Lý Lê
TAGS: Ung thư cổ tử cung, Tế bào ung thư, Nguy cơ ung thư cổ tử cung, Xuất huyết âm hộ, Gia tăng chất nhờn, Đau bụng dưới, Đau đớn khi giao hợp, Papsmear, Di căn ung thư cổ tử cung, Giai đoạn ung thư cổ tử cung, Điều trị ung thư cổ tử cung, Radical trachelectomy, Total hysterectomy, Radical hysterectomy, Xạ trị ung thư cổ tử cung, Hoá chất trị liệu, Tran Ly Le
Nguồn Y Dược Ngày Nay
No comments:
Post a Comment